Trong những năm qua, tỉnh Bắc Giang luôn xác định sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất chính trong phát triển kinh tế - xã hội, do đó đã thực hiện nhiều chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản xuất, tạo dựng thương hiệu nông sản của địa phương. Các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cơ giới hóa, tự động hóa các khâu trong quá trình sản xuất... được triển khai rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Các loại hình kinh tế tập thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được tỉnh ưu tiên, hỗ trợ, nhất là hợp tác xã và tổ hợp tác nông nghiệp. Một số mô hình đã đạt hiệu quả, được tỉnh khuyến khích là sản xuất rau an toàn, sản xuất hoa cao cấp, sản xuất cây có múi và sản xuất chè.
Các mô hình sản xuất rau an toàn, rau chế biến với diện tích hàng trăm héc-ta tập trung tại các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Hiệp Hòa, Lục Nam cho giá trị thu nhập bình quân từ 500 đến 800 triệu đồng/ha/năm, sản phẩm có thị trường tiêu thụ ổn định thông qua hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp. Một trong những mô hình sản xuất rau an toàn hiệu quả là sản xuất rau an toàn theo chuỗi liên kết của Công ty TNHH Sinh vật cảnh Hoàng Linh. Xuất phát từ chủ trương ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (KH và CN) vào xây dựng nông thôn mới của tỉnh Bắc Giang, Công ty TNHH Sinh vật cảnh Hoàng Linh đã đề xuất và được Bộ KH và CN phê duyệt thực hiện Dự án nông thôn miền núi “Ứng dụng tiến bộ KH và CN xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn theo chuỗi liên kết tại tỉnh Bắc Giang”. Kỹ sư Ong Khắc Nở, chủ nhiệm dự án cho biết, dự án đã tập trung lựa chọn một số công nghệ để sản xuất rau quy mô tập trung có hiệu quả cao, gồm các công nghệ tiên tiến về giống, kỹ thuật canh tác, sơ chế bảo quản sau thu hoạch. Công ty đang xây dựng 5.000 m2 nhà màng, lắp đặt thí điểm 1 ha hệ thống tưới tự động, xây dựng khu sơ chế nông sản với các hạng mục kho lạnh, kho sơ chế, gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp... Bên cạnh đó, đơn vị thiết kế nhãn, mác in trên bao bì, gắn tem truy xuất nguồn gốc khi đưa ra thị trường. Hiện nay, việc tiêu thụ rau khá thuận lợi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp ở Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội… Dự án đã góp phần thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, manh mún kém hiệu quả của người dân, hình thành vùng sản xuất rau an toàn quy mô tập trung thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ tiên tiến, sử dụng hệ thống máy móc, dần hình thành thói quen canh tác quy mô hàng hóa, tự động hoặc bán tự động giảm phần lớn chi phí công lao động, năng suất và hiệu quả nâng cao.
Bên cạnh đó, các mô hình sản xuất hoa cao cấp, chất lượng cao ở TP Bắc Giang có liên kết tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp, hợp tác xã cho doanh thu từ ba đến năm tỷ đồng/ha/năm, gấp từ hai đến ba lần so với sản xuất hoa thông thường. Mô hình sản xuất cây có múi được triển khai ở huyện Lục Ngạn với quy mô 35 ha, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, quy trình sản xuất VietGAP, cho thu nhập trung bình từ 500 đến 700 triệu đồng/ha/năm. Mô hình sản xuất chè triển khai ở huyện Yên Thế ứng dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, sử dụng giống mới, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, sản xuất theo quy trình VietGAP gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, năng suất, chất lượng và hiệu quả tăng từ 20 đến 30% so với sản xuất thông thường. Tỉnh cũng đã áp dụng quy trình VietGAP, GlobalGAP trong canh tác trên 39% diện tích cây ăn quả...
Với chiến lược phát triển nông nghiệp phù hợp, đến nay, tỉnh Bắc Giang đã hình thành được vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung như: Vùng lúa chất lượng tập trung ở các huyện: Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hòa, Lục Nam; vùng sản xuất chuyên canh cây ăn quả lớn nhất miền bắc tại các huyện: Lục Ngạn, Lục Nam, Tân Yên, Yên Thế, trong đó vùng sản xuất vải thiều lớn nhất cả nước…
Thời gian tới, tỉnh Bắc Giang tiếp tục đầu tư, phát triển mạnh, nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa, tự động hóa các khâu trong quá trình sản xuất; tập trung ứng dụng các tiến bộ về giống, các quy trình sản xuất tiên tiến, công nghệ sạch, hữu cơ, các chế phẩm sinh học, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Cùng với đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý sản xuất, quảng bá, xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản của địa phương.