Tài sản xác lập là hộ gia đình
Theo hồ sơ vụ việc, bà Trần Thị Duệ (SN 1958) và ông Nguyễn Hữu Lợi (SN 1960), cùng ngụ tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Hội, TP. Vĩnh Long) là vợ chồng hợp pháp và có với nhau 2 người con là Nguyễn Trung Quân ( SN 1988) và Nguyễn Ngọc Lan Anh (SN 1995).
Cha mẹ ruột ông Lợi là cụ bà Nguyễn Thị Khâu (mất năm 1987) và cụ ông Nguyễn Hữu Thời (mất năm 2001), có tất cả 4 người con trai, gái. Lúc sinh thời, vợ chồng cụ Khâu tạo lập được diện tích đất khoảng hơn 3.262m2 thuộc thửa 85 và 88, tờ bản đồ số 6, ấp Tân Thạnh, xã Tân Hội. Từ năm 1992, ông Lợi là người làm hồ sơ đăng ký xin cấp GCN QSDĐ.
Cụ Khâu mất và không để lại di chúc, cụ Thời thay mặt vợ và các con quản lý, sử dụng diện tích đất trên. Ngày 22/9/1999, cụ Thời lập chứng thư chia tài sản diện tích đất vườn nêu trên cho các con. Chúc thư này được UBND xã Tân Hội chứng nhận.
Theo chứng thư nói trên, diện tích đất được chia cho các hàng thừa kế thứ nhất, cụ thể, 3.262m2 được chia đôi, cụ Khâu 1.631m2, cụ Thời 1.631 m2. Phần đất của cụ Khâu tiếp tục được chia đều cho 5 người gồm chồng (cụ Thời) và 4 người con (trong đó có ông Lợi), mỗi người được hưởng 326m2.
Hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ đứng tên hộ gia đình, không phải cá nhân ông Lợi
Tổng diện tích đất cụ Thời được hưởng là 1.957m2, sau đó cụ Thời cho ông Lợi phần đất này, như vậy diện tích đất ông Lợi được hưởng thừa kế từ mẹ và cha cho là 2.283 m2. Việc chia thừa kế này được VKSND thị xã Vĩnh Long công nhận tại Quyết định số 01/QĐ-DS ngày 09/9/2002, cụ thể: “Ông Nguyễn Hữu Thời là người đứng ra phân chia di sản thừa kế phù hợp với khoản 1 và 2, Điều 685, Bộ Luật dân sự” (năm 1995).
Ngày 05/11/1999, ông Lợi lập tờ khai nguồn gốc sử dụng đất có tên vợ là Trần Thị Duệ với nội dung chúng tôi cùng sử dụng thửa đất thửa 85, diện tích 2557,1 m2 và thửa đất số 88 có diện tích 905,8m2, nguồn gốc thừa kế của mẹ. Đến ngày 19/9/2000, UBND thị xã Vĩnh Long cấp GCN QSDĐ số 00660.QSDĐ/304.QĐ. UBTX, phần chứng nhận ghi cấp cho hộ Nguyễn Hữu Lợi.
Căn cứ Điều 118, Bộ Luật Dân sự 1995 quy đinh về tài sản chung của hộ gia đình; Căn cứ Khoản 1, Điều 27, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, thì việc ông Lợi lập hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ được UBND thị xã Vĩnh Long cấp GCN QSDĐ ngày 19/9/2000 đã xác lập đây là tài sản thuộc hộ gia đình, theo đúng quy định của pháp luật về tài sản chung. Theo đó, ông Lợi chỉ là người đại diện gia đình đứng tên trên GCN QSDĐ, bà Duệ (vợ ông Lợi- PV) và 2 người con vẫn có quyền sở dụng hợp pháp khu đất nói trên cùng tài sản trên đất.
Bị kê biên tài sản riêng để bán đấu giá
Do không đồng ý với tài sản thừa kế, anh trai ông Lợi là ông Nguyễn Văn Chánh (SN 1959) khởi kiện ông Lợi ra Tòa về việc tranh chấp thừa kế. Ngày 09/6/2003, TAND tỉnh Vĩnh Long xét xử và ban hành bản án số 189/DSPT.
Theo bản án, diện tích đất thừa kế được phân chia lại, ông Lợi được hưởng 386,19 m2, phần diện tích đất còn lại chia cho các anh, chị em của ông Lợi. Gia đình ông Lợi, bà Duệ và 2 con ở trên diện tích đất được chia mới này.
Quá trình sinh sống do mâu thuẫn, ông Lợi và bà Duệ chấm dứt hôn nhân. Ngày 26/12/2006, TAND thị xã Vĩnh Long ban hành Quyết định số 107/2006/QĐST-HNGĐ, quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Duệ và ông Lợi, về phần tài sản chung do vợ chồng tự thỏa thuận.
Ngày 19/3/2008, TAND thị xã Vĩnh Long ban hành quyết định sự thỏa thuận của các đương sự số 19/2008/QĐST-DS, nội dung, ông Lợi và bà Duệ đồng ý cho 2 con ruột được hưởng tài sản là căn nhà và đất có diện tích 386,19 m2 và phần đất quản lý thực tế.
Trao đổi với phóng viên, bà Duệ cho biết, sau quyết định này của Tòa, khoảng 1 tháng sau ông Lợi bỏ đi, gia đình có đăng báo tìm kiếm nhiều tháng nhưng không có thông tin.
Mảnh đất hộ gia đình bà Duệ đã bị CCTHADS TP. Vĩnh Long thi hành án
Ở một diễn biến khác, năm 2007, ông Lê Thành Bi (SN 1954) khởi kiện các đồng thừa kế của ông Thời vì cho rằng phía ông Thời vi phạm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cụ thể, ngày 09/8/1999, ông Bi nhận chuyển nhượng 1300m2 đất (nằm trong diện tích đất ông Lợi đã đăng ký- PV) và lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ộng Thời, giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 13,5 lượng vàng 24k.
Ông Bi đưa trước cho ông Thời 18 triệu đồng, nhưng nội dung ghi trên hợp đồng là cho ông Lợi mượn số tiền trên và thỏa thuận ông Thời cùng ông Lợi phải lo thủ tục chuyển nhượng. Khi đang thực hiện hợp đồng, ngày 15/10/2001, ông Thời chết, hợp đồng không được thực hiện, ông Bi đưa vụ việc ra Tòa án để giải quyết.
Ngày 11/1/2008, TAND tỉnh Vĩnh Long xét xử và ban hành bản án số 12/2008/DSPT. Theo đó, TAND tỉnh Vĩnh Long tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Bi, ông Lợi, ông Thời, buộc ông Lợi phải trả tiền lại cho ông Bi số tiền 761.092.000 đồng.
Để thực hiện bản án số 12/2008/DSPT của TAND tỉnh Vĩnh Long, Chi cục THADS thị xã Vĩnh Long đã kê biên, xác định diện tích nhà, đất mẹ con bà Duệ đang quản lý, sử dụng có diện tích 400,2m2 là tài sản riêng của ông Lợi. Bà Duệ đã khởi kiện ông Lợi ra Tòa án, ngày 12/11/2008, TAND TP Vĩnh Long ban hành Quyết định số 79/2008/QĐST-HN đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau đó, Chi cục THADS thị xã Vĩnh Long đã ủy quyền cho Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh Vĩnh Long đưa nhà, đất diện tích 400,2m2 ra bán đấu giá vào ngày 17/12/2009, ông Bi mua trúng đấu giá. Mẹ con bà Duệ buộc phải di dời khỏi căn nhà, đất nêu trên.
Bà Duệ cho rằng, dù bà và ông Lợi đã ly hôn 2006, nhưng hồ sơ 400,2m2 có nguồn gốc đã được xác lập là tài sản thuộc hộ gia đình, có ngôi nhà được tạo lập trong quá trình hôn nhân (bà Duệ và 2 người con có quyền lợi). Việc cơ quan chức năng xác định đây là tài sản riêng của ông Lợi, kê biên bán đấu giá để thi hành khoản nợ riêng của ông Lợi là không đúng, hậu quả khiến bà và 2 con mất nhà, đất. Từ năm 2009 tới nay, bà Duệ làm đơn gửi cơ quan chức năng, yêu cầu bồi thường nhưng đến nay bà vẫn chưa thể đòi được quyền lợi.
Hoàng Anh - (conglyxahoi.net.vn)
T/h: Kim Nguyên - (dongbang.vn)