Khánh Hòa là một trong những địa phương có thế mạnh hàng đầu về nuôi trồng thủy sản, nhất là hải sản có giá trị cao, nhưng địa phương này vẫn "đau đầu" vì công nghệ nuôi lạc hậu, chính sách cho ngư dân nuôi trồng còn hạn chế.
Đa phần ngư dân tỉnh Khánh Hòa nuôi thủy sản bằng lồng bè truyền thống. Ảnh: KỲ NAM
Thị trường bấp bênh
Chi cục Thủy sản Khánh Hòa cho biết ngành nuôi trồng thủy sản ở Khánh Hòa thời gian qua cũng bị ảnh hưởng rất lớn, do diện tích nuôi giảm, giá nhiều mặt hàng như cá mú, tôm thẻ chân trắng... biến động, nhiều thời điểm giảm sâu nên người nuôi chỉ thả nuôi cầm chừng.
Người nuôi thủy sản hiện nay đang loay hoay tìm đầu ra cho sản phẩm khi phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu tiểu ngạch. Từ đầu năm 2022 đến nay, người nuôi tôm hùm ở huyện Vạn Ninh đứng ngồi không yên khi các tàu thu mua tôm của thương lái không cập vào bè để thu mua. Ông Nguyễn Chí Lem, ngư dân nuôi tôm hùm ở xã Vạn Thạnh (huyện Vạn Ninh), cho biết gia đình ông đang nuôi hơn 5.000 con tôm hùm bông trị giá tiền tỉ. Nhưng đến kỳ thu hoạch rồi mà không tìm được người mua trong khi mỗi ngày phải chi 5 triệu đồng để mua thức ăn cho tôm. Lý do là vì sản lượng tôm hùm tiêu thụ nội địa chỉ khoảng 20%, còn lại chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc theo đường tiểu ngạch và lệ thuộc vào thương lái thu mua.
Do thị trường tiêu thụ bấp bênh nên người nuôi cũng không dám đầu tư nuôi lớn. Ngư dân Đoàn Ngọc Vàng (phường Cam Linh, TP Cam Ranh) cho biết gia đình anh tạm ngừng nuôi vì thị trường xuất khẩu quá bấp bênh, ngay thị trường nội địa cũng trong tình trạng cung đang vượt cầu.
Tỉnh Nghệ An cũng là địa phương có nghề nuôi tôm phát triển, hiện toàn tỉnh có 7 vùng nuôi tôm VietGAP, diện tích nuôi tôm mặn lợ thâm canh tính cả 2 vụ/năm là 2.400 ha. Nhiều cơ sở đầu tư hạ tầng bài bản, xây dựng hệ thống nhà kín, mỗi năm nuôi luân canh từ 2-3 vụ. Tuy nhiên, hiện tại nghề nuôi tôm ở Nghệ An gặp nhiều khó khăn, do đầu ra sản phẩm tôm bấp bênh, chủ yếu phụ thuộc vào thương lái thu mua. Câu chuyện "được mùa, mất giá" kéo dài từ nhiều năm nay vẫn chưa có hồi kết đối với sản phẩm tôm. Ông Hoàng Văn Hà (SN 1974, trú xóm Tiền Phong, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc) cho biết hiện tại đến kỳ thu hoạch, người nuôi chỉ biết bán tôm cho thương lái nên bị ép giá là khó tránh khỏi.
Nghề nuôi tôm ở Nghệ An gặp khó do đầu ra bấp bênh. Ảnh: ĐỨC NGỌC
Vẫn áp dụng kỹ thuật truyền thống
Đối với nghề nuôi biển, Quảng Nam là tỉnh có lợi thế khá lớn khi sở hữu bờ biển dài, có 2 cửa biển lớn là Cửa Đại và An Hòa. Tuy nhiên, hiện nay các mô hình nuôi hải sản trên biển ở địa phương này diễn ra tự phát, giá trị kinh tế mang lại chưa cao.
Đi dọc các làng biển tại các xã Tam Tiến, Tam Hòa (huyện Núi Thành) hiện nay, có thể thấy rất nhiều hồ tôm bị bỏ hoang.
Ông Nguyễn Bá Nhị (SN 1976; xã Tam Tiến, huyện Núi Thành) cho biết mấy năm trở lại đây việc nuôi tôm không thuận lợi, kể cả thời tiết, con giống đều rất khó khăn, tỉ lệ thành công của bà con chỉ khoảng 20%-30%. Gia đình ông năm nay cũng thả 2 vụ nhưng đều không đạt, tôm gặp sự cố phải thu hoạch sớm. Thời điểm này có khoảng 70%-80% hộ nuôi tôm phải bỏ hồ vì thua lỗ.
Ngoài vấn đề về giống, kỹ thuật nuôi trồng của ngư dân hiện nay vẫn theo truyền thống, khá lạc hậu. Ông Đoàn Ngọc Vàng cho biết mỗi lồng bè đều dùng khung gỗ đóng lại sau đó ráp thùng phuy. "Chúng tôi biết nếu dùng lồng lớn, mật độ thưa thì cá nhanh lớn, giảm thiểu rất nhiều tình trạng ô nhiễm môi trường từ thức ăn và phân thải ra, kiểm soát được dịch bệnh. Tuy nhiên, với sức của một ngư dân để đầu tư dàn trải trên một diện tích mặt lớn như vậy sẽ rất tốn kém. Việc áp dụng công nghệ mới như lồng nhựa HDPE, hợp kim, lưới cũng tốn kém gấp 4-10 lần so với công nghệ truyền thống nên hầu như không ngư dân nào dám áp dụng" - ông Vàng giãi bày.
"Với kỹ thuật nuôi truyền thống như hiện nay, nếu gặp thiên tai, gió bão thì người nuôi dễ lâm cảnh trắng tay, nợ nần" - ông Nguyễn Ân, Chủ tịch UBND xã Cam Bình (TP Cam Ranh), khẳng định. Theo ông Nguyễn Ân, người dân trên địa bàn xã Cam Bình bắt đầu nuôi tôm hùm từ năm 1992. Đến nay, toàn xã có đến 95% dân số nuôi trồng thủy sản, với 456 bè nổi, 18.000 lồng nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh.
Tuy nhiên, người nuôi tôm hùm vẫn chủ yếu sử dụng lồng, bè gỗ truyền thống nên mỗi khi gặp mưa bão, bị thiệt hại rất nặng nề. Như cuối năm 2021, cơn bão số 9 đã làm 86 bè nổi, 2.541 lồng nuôi tôm hùm và cá biển bị thiệt hại lên đến 395 tỉ đồng.
Một số hộ gặp khó khăn không đủ vốn để tái đầu tư nuôi mới. "Chính quyền địa phương mong muốn ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp có hướng hỗ trợ người dân chuyển đổi từ nuôi tôm bằng lồng, bè gỗ sang vật liệu khác, thích ứng với biến đổi khí hậu, nhằm bảo đảm an toàn, nâng cao hiệu quả nuôi trồng thủy sản trên biển" - ông Ân tha thiết.
Nhiều hồ nuôi tôm ở Quảng Nam bị bỏ hoang. Ảnh: TRẦN THƯỜNG
Chưa thay đổi tư duy
Để nâng cao hiệu quả nuôi biển, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Khánh Hòa triển khai dự án thử nghiệm "Xây dựng mô hình nuôi biển cá giò bằng lồng tròn HDPE kiểu Na Uy" vào năm 2020 và kết thúc vào năm 2022, với quy mô 6 lồng nuôi ở khu vực Bãi Tranh, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh. Năm 2020, trung tâm triển khai nuôi 1 lồng và đã cho thu hoạch 5 tấn cá, lãi gần 100 triệu đồng sau 10 tháng nuôi.
Ông Trần Ngọc Sỹ, chủ lồng bè thuộc dự án "Xây dựng mô hình nuôi biển cá giò bằng lồng tròn HDPE kiểu Na Uy", cho biết gia đình đang thả 1.000 cá giò bằng công nghệ lồng tròn HDPE. Khác với các bè cá truyền thống làm từ gỗ, tre, có hình vuông kích thước 4 x 4 m, lồng HDPE có hình tròn, đường kính 10 m, thể tích lồng 500 m3, dễ dàng chịu trọng tải khoảng 30 người cùng đứng lên. Lồng nuôi này hoàn toàn do Việt Nam sản xuất nên gia đình mua chỉ 180 triệu đồng, giảm hơn một nửa so với lồng Na Uy nhập khẩu.
Trong năm 2022, trung tâm này cho biết sẽ tiếp tục hỗ trợ thêm 3 lồng nữa để thí điểm. Đây là mô hình điểm, với mong muốn người nuôi cá toàn tỉnh học tập, thay đổi phương thức nuôi cá biển từ lồng truyền thống bằng gỗ sang lồng HDPE.
Về vấn đề đổi mới công nghệ nuôi cho ngư dân, bà Trần Thanh Thúy, Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Khánh Hòa, cho biết tỉnh đã quy hoạch vùng nuôi biển với hơn 760 ha mặt nước nhưng đa số người dân nuôi trồng đều sử dụng công nghệ truyền thống. Riêng về lồng HDPE, hiện nay có thể áp dụng để nuôi cho nhiều loại cá khác nhau nhưng chỉ có một doanh nghiệp đề xuất nuôi tôm hùm, song cũng chỉ trao đổi, giới thiệu công nghệ mới, còn thực tế vẫn chưa triển khai.
Theo bà Thúy, để đổi mới công nghệ không thể nói một sớm một chiều vì có nhiều vấn đề tồn tại; phải xuất phát từ thực tế người nuôi, phải được ngư dân hưởng ứng. Thứ nhất, để có thể áp dụng công nghệ nuôi biển hiện đại cần có một tổ hợp tác để lắp ráp kỹ thuật, chạy máy móc thiết bị, cho ăn theo đúng tiêu chuẩn mới đạt hiệu quả, trong khi mỗi ngư dân đơn lẻ không đủ sức thực hiện. Thứ hai, mỗi bè nuôi có 20 ô khi qua công nghệ mới chỉ có 1 lồng thì mới bảo đảm tiêu chuẩn, có năng suất và mật độ nuôi cao hơn, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nếu đồng loạt áp dụng công nghệ mới thì phải nghiên cứu, khảo sát lại dòng chảy, quy hoạch chứ không thể nói dỡ 20 lồng truyền thống và lắp 1 lồng công nghệ mới là được; diện tích thông thoáng sẽ nhiều hơn nhưng diện tích nuôi sẽ bị thu hẹp. Nếu tính về lợi ích và mức độ đầu tư thì ngư dân sẽ khó thực hiện và có cảm giác mất ô lồng.
"Để ngư dân yên tâm đầu tư, điều đầu tiên là phải giao mặt nước cho ngư dân. Quy hoạch đã có nhưng đến nay vẫn chưa thể thực hiện cũng là một trong những khó khăn" - bà Thúy bày tỏ.
Theo bà Thúy, khó khăn lớn nhất của việc áp dụng nuôi biển theo công nghệ mới là ngư dân chưa hợp tác, chưa mạnh dạn đầu tư. Nếu 10 ngư dân nuôi biển chịu hợp tác với nhau, thành lập một tổ hợp tác, có quy chế hẳn hoi, mỗi người chỉ nuôi 1 lồng, sử dụng chung một công nghệ thì sẽ tiết kiệm và đạt hiệu quả. "Muốn hiện đại hóa, chuyển từ nuôi trồng nhỏ lẻ sang công nghiệp đòi hỏi ngư dân phải thực sự có trình độ, năng lực, kiến thức quản lý mới mong thực hiện được. Nhà nước hiện nay chỉ có thể định hướng, giới thiệu các mô hình chứ không thể bắt buộc ngư dân. Tất cả phải xuất phát từ chính lợi ích của ngư dân. Họ bỏ tiền ra đầu tư thì họ mới biết cách giữ và vận hành sao cho có hiệu quả. Để chuyển đổi cần phải làm cho tư duy của ngư dân thay đổi" - bà Thúy nhìn nhận.
Ứng dụng công nghệ cao để phát triển bền vững
Theo PGS-TS Phạm Quốc Hùng, Viện trưởng Viện Nuôi trồng thủy sản Trường Đại học Nha Trang, việc ứng dụng công nghệ cao để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản trên biển chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi nhưng cần có lộ trình, tập huấn chuyển đồi cho ngư dân. Đến năm 2025, điều đầu tiên cần thí điểm, chứng minh hiệu quả từ việc cải tiến hệ thống lồng nuôi, công nghệ nuôi để thích ứng với biến đổi khí hậu nên hạn chế số lượng nuôi của mỗi bè, chuyển dịch một phần sang nuôi theo quy mô công nghiệp, dần ra xa bờ và đánh giá hiệu quả của việc chuyển dịch này. Giai đoạn 2 là từ sau năm 2025, có thể triển khai đại trà lồng nuôi hiện đại trên các vùng biển mở, xa bờ, quy mô lớn gắn với hậu cần nghề cá, chế biến, xuất khẩu.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 15-8
Kỳ tới: Phải phát triển bền vững, có trách nhiệm