Thế nào là hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam?

Thứ hai, 19 Tháng 8 2019 12:57 (GMT+7)
Tại cuộc trao đổi với báo chí mới đây, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh đã có những giải đáp nhằm làm rõ hơn về dự thảo Thông tư quy định cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam.

Theo quy định tại dự thảo Thông tư, hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam là hảng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam; hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa.

Theo đó, dự thảo Thông tư này áp dụng cho hàng lưu thông trên thị trường Việt Nam, không áp dụng đối với hàng xuất khẩu. Nếu hàng nhập khẩu vàoViệt Nam đã có nhãn mác thể hiện xuất xứ không phải xuất xứ Việt Nam thì khi lưu thông trên thị trường, việc ghi nước xuất xứ sẽ được thực hiện theo Nghị định 43/2017/ NĐ-CP. Thông tư của Bộ Công thương sẽ không điều chỉnh các trường hợp này. Tuy nhiên, nếu hàng nhập khẩu lại gắn sẵn nhãn mác thể hiện đó là “hàng Việt Nam” thì Thông tư này sẽ được áp dụng. Cơ quan chức năng sẽ có quyền yêu cầu người nhập khẩu chứng minh đó là hàng Việt Nam trước khi thông quan. Đây là điểm mới, rất đáng lưu ý của Thông tư.

Lý giải về việc trong ASEAN hàng hóa phải đạt tỉ lệ hàm lượng giá trị gia tăng (VAC) là 40% mới được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ mà tại dự thảoThông tư này, chỉ cần hàm lượng 30% đã được coi là hàng hóa Việt Nam, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết, trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, hàm lượng giá trị gia tăng được gọi "hàm lượng giá trị khu vực" (RVC). Tên gọi này đã thể hiện tính chất "khu vực" của quy tắc xuất xứ, tức là cho phép cộng gộp xuất xứ của các nước thành viên. Ví dụ, với RVC 40% trong ASEAN thì 1 sản phẩm có 20% giá trị của Thái Lan, 10% của Philippines, 5% của Lào và 5% của Việt Nam sẽ được coi là đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D. Thông tư này quy định chặt hơn. Cụ thể, tỷ lệ giá trị gia tăng 30% nêu tại Thông tư là chỉ tính riêng giá trị của Việt Nam. Với quy định như tại dự thảo Thông tư, nhiều sản phẩm có thể đáp ứng xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D nhưng chưa chắc đã đủ điều kiện để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Trước ý kiến cho rằng ngưỡng hàm lượng giá trị gia tăng là 30% mà không phải ngưỡng cao hơn, thí dụ như 60% của Thụy Sỹ hay 50% của Mỹ; bên cạnh đó, phải bổ sung thêm các tiêu chí như phải mang thương hiệu Việt Nam, phải do công ty có trên 50% vốn Việt Nam sản xuất ra mới được coi là hàng hóa của Việt Nam…, ông Khánh cho biết, dự thảo Thông tư này được xây dựng chủ yếu dựa trên các bộ quy tắc xuất xứ hiện đang áp dụng cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam, trong đó có Nghị định số 31. Nhiều sản phẩm xuất khẩu của ta chỉ cần đáp ứng hàm lượng giá trị gia tăng 30% là được các nước bạn hàng công nhận là xuất xứ Việt Nam. Đặt ra các ngưỡng cao hơn 30% hoặc bổ sung thêm điều kiện không khó, chỉ cần thay 2 chữ số, viết thêm vài câu là xong. Nhưng nếu vậy sẽ xuất hiện tình huống oái oăm là cả thế giới công nhận nhưng riêng Việt Nam lại không công nhận một sản phẩm nào đó là sản phẩm của mình. Nhiều người thích viện dẫn Mỹ với Thụy Sỹ mà không biết rằng trong đàm phán với Việt Nam, cả Mỹ, cả Nhật, cả Thụy Sỹ đều tha thiết đề nghị ta áp dụng quy tắc VAC 30% hay chuyển đổi mã số hàng hóa cho tuyệt đại đa số sản phẩm công nghiệp của họ, không ai đề nghị 50% hay 60% cả, trừ đối với một vài mặt hàng cực kỳ nhạy cảm như may mặc, ô tô. Tại phụ lục các danh mục hàng hóa kèm theo dự thảo Thông tư, Bộ Công thương liệt kê các mặt hàng, trong đó hầu hết phải đạt tỷ lệ VAC 30% (một số ít sản phẩm 40%), đối với một mặt hàng cụ thể, nếu tiêu chí xác định "hàng hóa của Việt Nam" là VAC 30% thì 30% là ngưỡng thấp nhất mà VAC của hàng hóa đó phải đạt được để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Một thông tin được nhiều người quan tâm, đó là trong dự thảo Thông tư, không quy định bất kỳ một thủ tục hành chính mới nào mà doanh nghiệp phải tuân thủ. Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Thông tư chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.

Với Thông tư này, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc "gian lận xuất xứ", tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng. Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua. “Thông tư này, nếu được ban hành, sẽ do doanh nghiệp tự giác thực hiện. Nhà nước chỉ sử dụng Thông tư để phân xử đúng - sai khi xuất hiện tình huống đòi hỏi phải có sự phân xử đúng - sai, thí dụ như vụ Khaisilk trước đây.”, ông Khánh nói.

HOÀNG ANH - (baovanhoa.vn)
T/h: Bích Ngân (dongbang.vn)

Bài viết mới nhất của Ngành Hàng tiêu dùng - Đồ gia dụng