Phát hiện, điều trị sớm hẹp động mạch cảnh

Chủ nhật, 20 Tháng 10 2019 06:20 (GMT+7)
Theo các bác sĩ, động mạch cảnh hai bên là một trong hai hệ tuần hoàn cung cấp máu nuôi não (thuộc hệ tuần hoàn trước cấp máu cho hai bán cầu đại não), khi có tổn thương gây hẹp hoặc tắc động mạch này sẽ gây ra triệu chứng như thiếu máu não, đột quỵ tái diễn nhiều lần hoặc có thể dẫn đến đột quỵ nặng, đe dọa tính mạng người bệnh. Do đó, phát hiện và điều trị sớm bệnh hẹp động mạch cảnh là việc rất quan trọng.

 

Nguyên nhân hẹp động mạch cảnh

 

Từ khoảng một năm nay, Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) TP Cần Thơ triển khai kỹ thuật nong và đặt stent động mạch cảnh với sự chuyển giao từ Bệnh viện Chợ Rẫy, các bác sĩ khoa Ngoại thần kinh đã điều trị thành công cho hơn 20 trường hợp bị hẹp động mạch cảnh.

Gần đây nhất, BV điều trị cho bệnh nhân H.V.U (68 tuổi, ngụ tại Tam Bình, Vĩnh Long). Bệnh nhân vào viện vì nói khó kèm cơn đau đầu và hoa mắt, chóng mặt, tăng huyết áp, yếu nhẹ nửa người bên trái. Qua thăm khám và xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy bệnh nhân hẹp gần 90% động mạch cảnh trong bên phải, nguy cơ tắc mạch máu do đoạn hẹp là rất cao, dễ dẫn đến tai biến mạch máu não gây liệt hoàn toàn. Bệnh nhân được bác sĩ BVĐK TP Cần Thơ nong và đặt stent qua đoạn động mạch hẹp, phục hồi lưu thông dòng chảy động mạch cảnh bằng máy DSA dưới sự hỗ trợ của các bác sĩ Bệnh viện Chợ Rẫy. Sau 1 giờ, thủ thuật kết thúc thành công, sức khỏe bệnh nhân U. ổn định và phục hồi tốt.

Theo ThS.BS Nguyễn Tấn Luông, Phó Trưởng khoa Khoa Ngoại Thần kinh, bệnh nhân U. là trường hợp được phát hiện và điều trị kịp thời. Hẹp động mạch cảnh hay gặp ở đoạn đầu động mạch cảnh trong, với những trường hợp hẹp nhẹ thường không có triệu chứng gì và sẽ khó phát hiện nếu không được khám sàng lọc để điều trị dự phòng hẹp nặng hơn. Với những trường hợp hẹp nặng (≥ 70% lòng mạch), có thể gặp triệu chứng đột quỵ não thoáng qua hay cơn thiếu máu não thoáng qua biểu hiện là có dấu hiệu thần kinh khu trú như yếu tay, chân một bên, nói khó, méo miệng, các triệu chứng này sau đó tự hồi phục về bình thường trong vòng 24 giờ, cơn thiếu máu não thoáng qua có thể tái diễn nhiều lần và được coi là yếu tố nguy cơ rất cao của đột quỵ thực sự nếu không được điều trị. Người bệnh cũng có thể bị đột quỵ do tắc động mạch cảnh; một số triệu chứng do giảm dòng máu lên não như buồn ngủ, đau đầu, hay quên nhưng không đặc hiệu. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp hẹp nặng nhưng lại không có triệu chứng gì.

Nguyên nhân gây hẹp, tắc động mạch cảnh chủ yếu là do xơ vữa động mạch, vị trí xơ vữa hầu hết ở đoạn đầu động mạch cảnh trong (chiếm khoảng 80% các trường hợp). Nhóm đối tượng có nguy cơ bị bệnh lý hẹp, tắc động mạch cảnh trong đó là: người lớn tuổi, theo thống kê những người từ trên 60 tuổi có nguy cơ cao bị hẹp - tắc động mạch cảnh; người mắc bệnh cao huyết áp, đái tháo đường; những người hút thuốc lá. Ngoài ra, béo phì, lười vận động cũng là yếu tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch nói chung và bệnh lý xơ vữa, hẹp động mạch cảnh nói riêng.

Nong và đặt stent động mạch cảnh: hiệu quả, ít tai biến

ThS.BS Nguyễn Tấn Luông khuyến cáo, đối với những người bệnh có triệu chứng nghi ngờ hẹp động mạch cảnh hoặc có yếu tố nguy cơ cao cần phải đến các bệnh viện có chuyên khoa về bệnh lý mạch máu để được khám sàng lọc. Các bác sĩ có thể khảo sát bằng những cận lâm sàng cần thiết để gợi ý hẹp động mạch cảnh như: siêu âm động mạch cảnh hay chụp cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT) hoặc cộng hưởng từ mạch máu (MRA). Sau cùng nếu có hẹp, tùy từng mức độ hẹp, người bệnh sẽ được chỉ định thuốc điều trị dự phòng hoặc cho chụp thêm mạch máu số hóa xóa nền (DSA).

Các bác sĩ can thiệp nội mạch nong và đặt stent động mạch cảnh dưới sự hỗ trợ của máy số hóa xóa nền (DSA).

Những trường hợp cần được điều trị can thiệp là khi bị hẹp ≥ 70% lòng mạch; hẹp có triệu chứng (đột quỵ não thoáng qua, đột quỵ tái diễn, triệu chứng của thiếu máu não) cho dù mức độ hẹp có thể chưa đến 70%; hoặc tắc cấp tính động mạch cảnh. Hiện nay có hai phương pháp chủ yếu để điều trị hẹp động mạch cảnh là phẫu thuật bóc bỏ mảng xơ vữa gây hẹp và can thiệp nội mạch nong và đặt khung giá đỡ (stent) làm rộng lòng mạch.

Với phương pháp phẫu thuật bóc mảng xơ vữa, các bác sĩ sẽ mở một đường ở phần cổ để vào mạch máu, sau đó rạch lòng mạch ở vị trí hẹp rồi bóc bỏ mảng xơ vữa và lập lại lưu thông dòng máu trong lòng mạch. Phương pháp phẫu thuật này, bệnh nhân phải gây mê, đường mổ rộng, quá trình phục hồi sau mổ kéo dài. Đối với phương pháp nong và đặt stent động mạch cảnh, BVĐK TP Cần Thơ hiện đang triển khai là phương pháp can thiệp xâm lấn tối thiểu, sử dụng các ống thông và dụng cụ nong, giá đỡ kim loại (stent) đưa đến vị trí hẹp làm mở rộng lòng mạch, tái lập lưu thông dòng máu.

Với can thiệp nội mạch nong và đặt stent động mạch cảnh, các bác sĩ sẽ tiến hành gây tê vào vùng bẹn bệnh nhân, sau đó chọc kim vào lòng động mạch vùng bẹn, đưa các ống thông từ vị trí chọc mạch lên tiếp cận tổn thương ở động mạch cảnh. Sau đó các bác sĩ sẽ dùng bóng nong và đặt stent vào vị trí hẹp để làm lòng mạch mở rộng ra. Kết thúc thủ thuật, người bệnh được băng ép vị trí chọc mạch vùng bẹn và nằm bất động khoảng 8 tiếng. Phương pháp này tỷ lệ điều trị thành công cao (>90%), thời gian thực hiện thủ thuật nhanh, ít tai biến và biến chứng. Bệnh nhân sau khi can thiệp tùy vào tình trạng lúc nhập viện mà có thể xuất viện từ 3 đến 5 ngày điều trị.

Bài, ảnh: NGUYỆT HƯƠNG - (baocantho.com.vn)
T/h: Bích Ngân (dongbang.vn)

Bài viết mới nhất của Sức Khỏe