Xây dựng chuẩn mực từ vùng nuôi tôm. Ảnh: HỮU ĐỨC
Nhận diện thị trường
Vào đầu vụ nuôi thả nuôi tôm mới ở ĐBSCL, nhận định về thị trường xuất khẩu tôm - ông Hồ Quốc Lực, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản Sao Ta, cho rằng: Qua những hiệp định tự do thương mại, các nước nhập khẩu tôm dựng nhiều hơn các hàng rào kỹ thuật, kiểm tra chặt chẽ hơn, kể cả hậu kiểm trên kệ hàng. Các tổ chức chứng nhận tiêu chuẩn BAP, ASC ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống kiểm soát của mình, gây bất ngờ, thụ động cho các nhà máy chế biến, vùng nuôi. Thí dụ trước đây BAP kiểm tra nhà máy chế biến, chỉ cần doanh nghiệp (DN-chủ nhà máy) tự kiểm tra chất lượng sản phẩm trong kho và báo cáo cho họ. Nay họ tự vào kho và kiểm tra bất kỳ sản phẩm nào có trong kho. Lẽ tất nhiên, rủi ro sẽ tăng cao.
Trong khi đó thị trường tôm lớn nhất là EU, các hệ thống phân phối lớn ở đây yêu cầu kiểm tra chất lượng tôm theo chuỗi giá trị. Trong đó cơ sở cung ứng tôm giống và thức ăn phải đạt chuẩn tương đương như BAP, ISO... Đây là xu thế tất yếu. Thị trường tôm lớn thứ hai là Nhật Bản vẫn duy trì kiểm tra toàn bộ lô hàng tôm từ Việt Nam với nhiều tiêu chí dư lượng khắt khe. Thị trường Hoa Kỳ được xem là thị trường tương đối “dễ thở” hơn nhưng lại là nơi hội tụ tôm từ nhiều nguồn tôm giá rẻ trên thế giới, nhất là Ấn Độ và Indonesia. Do đó khiến việc tiêu thụ tôm Việt vào Mỹ bị hạn chế.
Đối với thị trường Canada công bố coi trọng hậu kiểm, khiến rủi ro không còn ở từng lô hàng mà cho toàn bộ hàng đang tiêu thụ. Nghĩa là họ kiểm hàng doanh nghiệp nào đó trên kệ trong siêu thị, nếu không đạt, chắc chắn hàng của doanh nghiệp đó đang lưu hành ở Canada sẽ bị triệu hồi, trả về. Thị trường khá lớn là Hàn Quốc và Úc thì tập trung kiểm tra bệnh tôm. Mà bệnh tôm khá phổ biến ở ĐBSCL.
Chung quy có thể nhận rõ các thị trường liên thông nhanh. Chỉ cần sản phẩm của doanh nghiệp sai sót ở một thị trường thì khách hàng, hệ thống kiểm soát các thị trường khác đều có hướng phản ứng tiêu cực đối với doanh nghiệp có sai sót đó. Vừa qua một DN chế biến tôm khá lớn ở Cà Mau đang rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn là do nguyên nhân này.
Chú trọng nâng chất
Trước tình hình thị trường đang chuyển đổi, để đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu toàn ngành tôm 4,2 tỉ USD như kỳ vọng, nhiều DN chế biến xuất khẩu tôm đề xuất cần có sự nỗ lực chung của toàn ngành, cần đẩy nhanh hơn các chương trình hành động mang tính đồng bộ, thiết thực và có tác dộng cụ thể. Trong đó đặc biệt chú trọng kiểm tra, kiểm soát vật tư đầu vào nuôi tôm. Cụ thể cơ quan chức năng tuyên truyền, kiểm tra, ngăn chặn các chế phẩm không được sử dụng trong nuôi tôm, nhất là kiểm soát chặt các kháng sinh cấm cần có biện pháp quyết liệt, triệt để và duy trì dài hạn. Bên cạnh đó chuẩn hóa các cơ sở cung ứng tôm giống, thức ăn theo yêu cầu của thị trường nhằm tạo ra sự đồng bộ chuỗi giá trị tôm Việt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Mặt khác, vấn đề tồn tại lâu nay ở vùng nuôi tôm tại nhiều địa phương phản ánh chính là việc đầu tư cơ sở hạ tầng còn bất cập. Việc chú trọng quy hoạch lại vùng nuôi và đầu tư cơ sở hạ tầng là hết sức cần thiết.
Các DN chế biến xuất khẩu tôm trong vùng cho rằng: Đến kỳ thu hoạch mối lo lớn và tốn kém chi phí là việc thu mua phải kiểm soát chất lượng tôm nguyên liệu. Vấn đề căn cơ cần khắc phục tình trạng nuôi tôm tự phát, nhỏ lẻ, nếu nuôi không kiểm soát được thì không thể bán cho hệ thống lớn, chỉ bán cho khu vực chợ nhỏ, giá thấp. Do đó việc tổ chức lại sản xuất nuôi tôm, quy mô trang trại, hợp tác xã đạt chuẩn nuôi thị trường yêu cầu, để sản phẩm có thể tiêu thụ ở các hệ thống lớn, giá tốt, tạo nền tảng đột phá cho chất lượng, uy tín, thương hiệu tôm Việt. Thêm mối quan ngại nữa là vừa qua tình trạng mạo nhận xuất xứ tôm Việt sẽ tạo một rủi ro tiềm tàng, có thể gây tổn thương uy tín thương hiệu tôm Việt. Một số DN bày tỏ lo ngại, đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hải Quan, VCCI kiểm soát việc tạm nhập tái xuất.
“Đã qua 3 tháng đầu năm, diễn biến và dự đoán năm 2019 thuận lợi và thách thức đan xen trong ngành tôm. Nhưng thách thức đang ở cấp cao nhất so với trước đây. Cùng với sự cạnh tranh khốc liệt giữa tôm nuôi các nước đang tác động mạnh còn có thêm điểm cần lưu ý là phương tiện truyền thông. Chỉ cần một sơ suất không lớn nhưng với tác động của các phương tiện truyền thông từ phía đối thủ (các nước bán cùng ngành hàng tôm) sẽ khiến việc tiêu thụ tôm thêm khó khăn. Cách xử lý hữu hiệu nhất là hạn chế tối đa sơ suất. Muốn vậy, tôm Việt Nam phải sạch, có chứng nhận quốc tế và dễ truy xuất nguồn gốc” - ông Lực nói.