Sản xuất VLXD ổn định và tăng trưởng
Kết quả báo cáo 10 tháng đầu năm 2020 của ngành VLXD cho thấy, dù trải qua Covid-19 và ảnh hưởng trầm lắng của thị trường BĐS, tất cả các sản phẩm VLXD vẫn đang sản xuất ổn định. Phát triển VLXD đã từng bước được chú trọng hơn theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Công suất thiết kế và sản lượng một số sản phẩm VLXD đã tăng gấp 2 - 3 lần so với thời kỳ 10 - 15 năm trước. Mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển, đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong nước, từng bước thay thế hàng nhập khẩu và đã xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Theo số liệu thống kê của Bộ Xây dựng, đến ngày 31/10/2020, tình hình tiêu thụ một số sản phẩm VLXD cụ thể: lượng xi măng tiêu thụ đạt 74 triệu tấn, kính xây dựng đạt 171 triệu m2, sứ vệ sinh đạt 12,8 triệu sản phẩm, đá ốp lát đạt 12 triệu m2, gạch ốp lát đạt 452 triệu m2, vôi công nghiệp đạt 1,5 triệu tấn, tấm lợp fibro xi măng đạt trên 33 m2.
Riêng xi măng không chỉ đạt được mục tiêu sản xuất trong nước mà tiếp tục xuất khẩu. Trong 11 tháng 2020, xuất khẩu xi măng, clinker đã đạt trên 35 triệu tấn, trị giá 1,320 tỷ USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 5,4% về trị giá. Ước xuất khẩu xi măng, clinker cả năm 2020 sẽ vượt 38 triệu tấn.
Theo ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), với ngành VLXD, dù chịu tác động của Covid-19 nhưng kết quả kinh doanh ghi nhận đạt được con số khả quan. Tất cả các sản phẩm VLXD vẫn đang sản xuất ổn định, dù năng suất và sản lượng có giảm so với cùng kỳ năm ngoái nhưng đa phần đều tăng trưởng dương…
Phát triển VLXKN có sự chuyển biến tích cực
Đối với lĩnh vực vật liệu xây không nung (VLXKN), báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 (Chương trình 567) của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/11/2020 cho thấy, việc đầu tư, sản xuất và sử dụng VLXKN đã có sự chuyển biến tích cực; các công nghệ mới, thiết bị mới sản xuất VLXKN từng bước được đầu tư, phát triển; các sản phẩm VLXKN đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng từng bước được hoàn thiện và nâng cao; công tác thanh kiểm tra từng bước đi vào nề nếp…
Sau 10 năm thực hiện Chương trình 567, tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm chính là gạch bê tông (gạch xi măng - cốt liệu), gạch bê tông khí chưng áp (AAC) và gạch bê tông bọt đến năm 2020 đạt khoảng 10,2 tỷ viên QTC/ năm. Tuy nhiên hiện nay, các DN chỉ phát huy được khoảng trên 40% công suất thiết kế, sản lượng sản xuất chỉ đạt khoảng 5 tỷ viên QTC, chiếm trên 25% so với tổng sản lượng vật liệu xây.
Mặc dù về cơ bản, kết quả chưa đạt được mục tiêu của Chương trình, tuy nhiên với sản lượng trên thì hàng năm tiết kiệm được khoảng 7,5 triệu m3 đất sét - tương đương 375 ha đất khai thác ở độ sâu 2 m, giảm tiêu thụ khoảng 750.000 tấn than và giảm thải ra môi trường khoảng 2,85 triệu tấn CO2. Đây là kết quả ấn tượng góp phần giảm thải gây ô nhiễm môi trường và giảm quá trình suy giảm diện tích đất nông nghiệp ở nước ta…
Chiến lược phát triển VLXD - Bệ đỡ chính sách
Ngày 18/8/2020, tại Quyết định 1266/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Chiến lược phát triển VLXD Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050 (Chiến lược).
Chiến lược có mục tiêu phát triển ngành công nghiệp sản xuất VLXD đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước; loại bỏ hoàn toàn công nghệ sản xuất VLXD lạc hậu, tiêu tốn nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tính cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Hạn chế xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu là tài nguyên khoáng sản không tái tạo.
Theo nhận định của Bộ Xây dựng, Chiến lược được phê duyệt có ý nghĩa quan trọng, dẫn dắt định hình các hoạt động phát triển VLXD phù hợp với quy luật cung - cầu của kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển kinh tế - xã hội và hài hòa bảo vệ môi trường làm chủ đạo trong thời gian 10 năm tới và định hướng đến năm 2050.
Đặc biệt, Chiến lược sẽ tạo điều kiện cho công tác cải cách thủ tục hành chính ngày càng diễn ra nhanh và hiệu quả hơn để đáp ứng với nhu cầu phát triển của thực tiễn và hội nhập sâu rộng cùng xu thế phát triển VLXD của thế giới.
Đây cũng sẽ trở thành bệ đỡ hành lang chính sách thúc đẩy ngành VLXD. Với định hướng rõ ràng, sự hỗ trợ thiết thực, ngành VLXD tại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng tốc.
Định hướng phát triển VLXD năm 2021
Theo đánh giá chung, mặc dù ngành VLXD năm 2020 đã đạt được một số bước tiến nhất định, song sản xuất VLXD của Việt Nam vẫn chưa thực sự bền vững, còn bộc lộ những vấn đề bất cập cần phải khắc phục như: Việc đầu tư phát triển sản xuất đối với một số chủng loại VLXD còn chưa hợp lý, quy mô còn nhỏ và phân tán, hiệu quả đầu tư chưa cao; công nghệ sản xuất VLXD ở một số lĩnh vực còn lạc hậu; nhân lực kỹ thuật được đào tạo bài bản trong lĩnh vực sản xuất VLXD còn mỏng, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển ngày càng cao của Ngành…
Dự báo năm 2021, ngành VLXD sẽ đứng trước hai nguồn cầu lớn. Thứ nhất là vấn đề khắc phục sự cố lũ lụt ở miền Trung và sạt lở ở miền núi trong giai đoạn vừa qua. Điều này cần phải dùng đến số lượng vật liệu rất lớn để đáp ứng cho xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng. Cùng với đó là quyết định chủ trương đầu tư của Chính phủ trong việc đầu tư công của các dự án cuối năm 2020. Thứ hai là, thị trường BĐS dự báo đang có chiều hướng phục hồi tốt. Điều này dẫn đến đầu tư BĐS tăng lên, kéo theo việc sử dụng vật liệu vào các công trình cũng tăng lên. Đó là những yếu tố có thể đánh giá thị trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm VLXD tương đối khả quan so với các nước khác trong khu vực.
Do đó, để phát triển bền vững ngành VLXD giai đoạn tiếp theo, ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ VLXD, Bộ Xây dựng cho rằng, cần ưu tiên đầu tư các dự án sản xuất VLXD mới, các dự án công suất lớn sử dụng công nghệ tiên tiến; các dự án sản xuất VLXD sử dụng khối lượng lớn chất thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và rác thải sinh hoạt; kết hợp việc sử dụng khoáng sản tự nhiên với việc sử dụng vật liệu tái chế. Tận dụng tối đa tro, xỉ, thạch cao phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón và các cơ sở công nghiệp khác làm nguyên liệu, phụ gia sản xuất VLXD…
Đối với hành lang pháp lý để phát triển VLXD, cần bổ sung thêm những chính sách, tính pháp lý cho việc đầu tư phát triển vật liệu xanh, vật liệu sử dụng các chất thải, phế thải để sản xuất VLXD và sử dụng trong các công trình xây dựng…
Linh Anh - (baoxaydung.com.vn)
T/h: H.Phong (dongbang.vn)